Tác giả Trần Tú Xương là một trong những nhà thơ trào phúng và trữ tình xuất sắc của nền văn học Việt Nam. Trong số những tác phẩm vừa châm biếm, phản ánh xã hội đương thời, vừa trữ tình, sâu lắng của ông, “Thương vợ” là một trong những bài thơ cảm động nhất. Bài thơ là lời ca ngợi về đức hy sinh cao cả của người vợ, nhưng cũng là nỗi xót xa của nhà thơ trước hoàn cảnh thân phận của mình.
|
|
“Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng”
Hai câu đề của bài thơ đã miêu tả được hình ảnh bà Tú - một người phụ nữ chịu thương, chịu khó, vất vả mưu sinh một cách vô cùng chân thực. Từ “quanh năm” gợi cho người đọc sự liên tục, không ngơi nghỉ, là vòng tuần hoàn không hồi kết của nỗi vất vả mà bà Tú phải chịu đựng. Không chỉ nỗi vất vả, từ “mom sông” trong câu thơ cũng là nơi đầu ngọn sóng gió, thể hiện sự nhọc nhằn, gian truân của bà Tú. Vất vả đến thế, nhưng câu thơ thứ hai “Nuôi đủ năm con với một chồng” còn nhấn mạnh cho người đọc về gánh nặng to lớn đè lên vai bà Tú. Tất cả đều cho thấy sự tần tảo và đảm đang vô cùng của bà.
Nỗi nhọc nhằn của bà Tú còn được khắc hoạ rõ nét hơn ở hai câu thực:
“Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông”
“Thân cò” gợi nhớ đến hình tượng người phụ nữ trong câu ca dao, cho người đọc thấy sự lam lũ và vất vả của người phụ nữ xưa. Ngòi bút của nhà thơ Tú Xương còn cho ta thấy cả sự cô độc, lẻ loi đáng thương qua cụm từ “khi quãng vắng”, nó hệt như nốt trầm lặng lẽ giữa cuộc đời. Trái lại, “Eo sèo mặt nước buổi đò đông” là phép đối tả cảnh xô bồ nơi chợ búa, thể hiện rõ nỗi nhọc nhằn của bà Tú giữa mưu sinh cuộc đời. Các từ láy: “lặn lội”, “eo sèo” cũng làm nổi bật hơn sự vất vả của bà Tú trong cuộc sống mưu sinh khốn khó.
Vất vả đến thế, nhọc nhằn đến vậy, nhưng bà Tú vẫn cam chịu, không than vãn. Điều ấy được thể hiện rõ trong hai câu luận của bài thơ:
“Một duyên, hai nợ, âu đành phận
Năm nắng, mười mưa, dám quản công”
Cụm từ “Một duyên hai nợ” sử dụng số từ “một” – “hai”, thể hiện sự gian truân trong cuộc đời của bà Tú: duyên ít mà nợ nhiều, nhọc nhằn nhiều hơn hạnh phúc. Nhưng dù như vậy, bà vẫn không oán than, “âu đành phận”. Thành ngữ “năm nắng mười mưa” cũng sử dụng số từ “năm” – “mười”, cho ta thấy sự vất vả, dãi dầu mưa nắng chồng chất của bà. “Dám quản công” – dẫu nhọc nhằn đến mấy, bà vẫn chẳng một lời kêu ca, oán trách phận mình. Số phận của bà Tú – hay những người phụ nữ trong xã hội cũ – đều khó nhọc, cực khổ như vậy, và họ thật đáng thương biết bao!
Chứng kiễn nỗi cực nhọc của vợ mình mà chẳng thể làm gì, nhà thơ Tú Xương chỉ biết giãi bày tâm sự qua hai câu kết:
“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không!”
“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc” là câu chửi thề đầy tính trào phúng. Sự trào phúng ấy là lời Tú Xương tự oán trách bản thân, oán trách xã hội đầy rẫy bất công với phụ nữ, hay chính là người vợ ông yêu thương. “Có chồng hờ hững cũng như không!” là tiếng lòng đầy chua xót và bất lực của Tú Xương. Ông “ghét” sự bất lực của bản thân, bởi phận đàn ông chẳng những không giúp được cho vợ mà còn trở thành gánh nặng của bà Tú. Qua đó, ta thấy được tình cảm và sự thấu hiểu mà nhà thơ dành cho vợ của mình.
“Thương vợ” là một bài thơ trữ tình sâu sắc của nhà thơ Tú Xương, thể hiện rõ lòng biết ơn của ông với người vợ của mình. Hình ảnh bà Tú trong bài thơ là đại diện cho những người phụ nữ Việt Nam tần tảo, giàu đức hy sinh, thể hiện sự đồng cảm sâu sắc với thân phận người phụ nữ. Qua đó, ta không chỉ thấy được tài năng và tấm lòng biết thấu hiểu, yêu thương của nhà thơ Trần Tú Xương mà còn thêm hiểu, thêm thương và trân trọng, biết ơn những gì mẹ đã hy sinh cho gia đình.

(Tác giả bài viết: Nguyễn Uyên Linh)