Viết lách không chỉ là công việc sáng tạo mà còn là hành trình quay về với nội tâm, nơi người viết lắng nghe tiếng nói bản thể của chính mình. Nhà văn Mai Văn Phấn từng khẳng định: “Viết cũng là quay vào bên trong tâm hồn mình, lắng nghe tiếng nói nội tâm, của bản thể. Khi trong tâm người viết là tất cả thế giới thì họ sẽ viết về chính mình như viết về thế giới và ngược lại.” Nhận định này nhấn mạnh sự hòa quyện giữa cá nhân và thế giới trong sáng tạo nghệ thuật. Khi một người viết thật sự nhập tâm, thế giới bên ngoài sẽ phản chiếu trong những con chữ, và chính người viết cũng khám phá bản thân qua tác phẩm của mình. Quan điểm này cũng gợi nhắc đến những trăn trở trong sáng tác mà nhà thơ Chế Lan Viên từng bộc bạch:
"Cả một đời ăn hạt gạo nhân dân
Lần thứ nhất thơ đi học cấy
Bỗng hối tiếc nghìn câu thơ nước chảy
Chửa vì đời bằng một bữa cơm ăn."
Bài thơ thể hiện sự thức tỉnh của người nghệ sĩ trước giá trị thực tiễn của sáng tạo. Nghệ thuật không chỉ là những dòng chảy cảm xúc mà còn cần gắn liền với đời sống con người. Chính sự thấu hiểu, đồng cảm với thế giới mới tạo nên những tác phẩm thực sự có ý nghĩa. Từ đây, ta có thể nhìn nhận sâu hơn về vai trò của người viết: viết không chỉ để bộc bạch cái tôi, mà còn để kết nối, để sẻ chia với cuộc đời.
Vậy thông qua nhận định Mai Văn Phấn gửi gắm ý nghĩa gì? “Viết cũng là quay vào bên trong tâm hồn mình, lắng nghe tiếng nói nội tâm, của bản thể”. Câu nói thể hiện quan điểm về sáng tác của một nhà văn, và phản ánh một tư tưởng sâu sắc về sự gắn kết giữa con người và thế giới. Khi viết, người nghệ sĩ không chỉ đơn thuần ghi lại những gì mình thấy mà còn bộc lộ những cảm xúc, suy tư nội tâm. Đồng thời, khi phản ánh thế giới, họ cũng gián tiếp khám phá chính bản thân mình. Hành động quay về bên trong chính là cách họ nhìn nhận và tìm hiểu thêm thế giới ở những mặt khác, lắng nghe, quan sát thế giới trong chính “nội tâm” mình. Câu nói là khẳng định tính chủ quan, cái tôi cá nhân của mỗi nhà văn là một phần chất liệu của tác phẩm văn học không thể thiếu… Khi viết, người nghệ sĩ buộc phải đối diện với những trăn trở, cảm xúc của bản thân. Họ không chỉ viết bằng trí óc mà còn bằng trái tim, bằng tất cả những gì đã trải qua trong cuộc đời. Viết cũng giống như một quá trình tự nhận thức, nơi mà người sáng tác tìm lại chính mình qua từng con chữ. Những điều họ ghi lại không chỉ là câu chuyện của nhân vật mà còn phản ánh tâm tư, triết lý sống, quan điểm cá nhân. Một tác giả không thể viết hay nếu chỉ nhìn cuộc đời một cách hời hợt. Họ cần phải quan sát, trải nghiệm và suy ngẫm về thế giới một cách sâu sắc. Những biến động lịch sử, những nỗi đau con người, những triết lý nhân sinh đều có thể trở thành chất liệu cho văn chương. Một người viết giỏi phải có khả năng đồng cảm với con người và sự vật xung quanh, để khi viết, họ có thể tái hiện thế giới một cách chân thực và sâu lắng. Một tác giả không thể tách rời khỏi bối cảnh xã hội mà họ đang sống. Dù viết về bản thân, họ vẫn đang phản ánh phần nào hiện thực của thời đại. Những gì một nhà văn cảm nhận, những nỗi đau hay niềm vui của họ, đều mang dấu ấn của thế giới bên ngoài.
Hàn Mặc Tử chứng minh điều đó thông qua “Cửa sổ đêm khuya”: “Hoa cười nguyệt rọi cửa lồng gương/ Lạ cảnh buồn thêm nỗi vấn vương/Tha thướt liễu in hồ gợn sóng/ Hững hờ mai thoảng gió đưa hương”, là một bệnh nhân ông còn cảm nhận được sâu sắc hơn nữa cái cảm giác cô đơn, lạnh lẽo, vắng bóng một điều gì đó, thế giới của ông trong ấy tuy đẹp nhưng huyền ảo. Trong thế giới nghệ thuật của Nam Cao, ta thấy được sự bức bối của ông qua “Chí Phèo”, phản ánh xã hội áp bức, kẻ có quyền lực như Bá Kiến thao túng tất cả, còn người nông dân lương thiện bị đẩy vào con đường tha hóa và bế tắc, Nam Cao khinh bỉ, ruồng rẫy cái xã hội ấy: "Miệng luôn nói 'nhân nghĩa', nhưng bụng thì chứa đầy những mưu mô thâm độc.", "Dùng thằng đầu bò trị thằng đầu bò, dùng thằng mất dạy trị thằng mất dạy."... “Hắn cười... một cái cười Tào Tháo”, Nam Cao hiểu được sự bất bình của bản thân và cần có nhu cầu lên án xã hội thời ấy. Bằng ngôi kể thứ ba Nam Cao khéo léo chêm xen “tiếng nói nội tâm” để tăng tính cộng đồng cho tác phẩm của mình. Để có một tác phẩm văn học sâu sắc nhà văn còn phải gài gắn những trải nghiệm cá nhân lẫn tư tưởng chủ quan để tác phẩm có thêm chiều sâu, đồng thời nói lên tiếng lòng mình. Bởi lẽ mỗi tác phẩm là sự khúc xạ giữ hiện thực cuộc sống và lăng kính thiên kiến của người sáng tác.
"Khi trong tâm người viết là tất cả thế giới thì họ sẽ viết về chính mình như viết về thế giới và ngược lại”, nhấn mạnh mối quan hệ chặt chẽ giữa nhà thơ và hiện thực, giữa cảm xúc cá nhân và những rung động của cuộc đời. Một tác phẩm chân chính không chỉ phản ánh thế giới bên ngoài mà còn bộc lộ thế giới nội tâm của người nghệ sĩ. Điều này thể hiện rõ trong bài “Thơ duyên” của Xuân Diệu. Dưới ngòi bút của ông, thiên nhiên không chỉ là một bức tranh tĩnh lặng mà mang trong mình hơi thở của tình yêu, của lòng người:
"Chiều mộng hòa thơ trên nhánh duyên,
Cây me ríu rít cặp chim chuyền,
Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá,
Thu đến – nơi nơi động tiếng huyền."
Bức tranh thiên nhiên ấy không đơn thuần chỉ để miêu tả cảnh sắc mùa thu mà còn phản ánh nhịp đập trái tim Xuân Diệu – một trái tim luôn khát khao yêu thương, giao cảm với cuộc đời. Cảnh vật trở nên sống động, có linh hồn, như thể đồng điệu với tâm hồn thi sĩ. Khi viết về cuộc đời, nhà văn đồng thời gửi gắm trong đó những suy tư, trăn trở của chính mình, và khi viết về bản thân, họ vẫn có thể tạo nên sự đồng cảm với con người nói chung. Những trang viết giàu cảm xúc nhất luôn mang đậm dấu ấn cá nhân nhưng lại có khả năng chạm đến trái tim của nhiều người. Sự hòa quyện giữa cái riêng và cái chung giúp tác phẩm có chiều sâu và sức lan tỏa mạnh mẽ. Một nhà văn chỉ có thể thực sự chạm đến độc giả khi họ để thế giới sống trong tâm hồn mình, để từ đó những gì họ viết ra vừa mang dấu ấn cá nhân vừa phản ánh được hơi thở của cuộc sống. "Nếu bạn muốn vẽ nên bức tranh về thế giới, hãy vẽ ngôi làng của bạn." - lev tolstoy.
Nguyễn Việt Chiến là một nhà thơ hiện đại có phong cách trữ tình kết hợp với suy tư triết lý sâu sắc. Thơ ông thường thể hiện những trăn trở về cuộc đời, con người và vai trò của nghệ thuật trong dòng chảy thời gian. Bài thơ này là một minh chứng rõ nét, khi ông khắc họa hình tượng nhà thơ vừa mong manh, lặng lẽ, vừa mang trong mình sức mạnh nội tâm và những dấu ấn không thể phai mờ trong thế giới.
Những nhà thơ trong bài hiện lên với vẻ khiêm nhường nhưng đầy sức nặng. Họ "lặng lẽ về trời, như những đám mây nhỏ", nhẹ nhàng tan biến, để lại phía sau "các đám mây nỗi buồn". Hình ảnh đám mây vừa gợi sự phiêu diêu, tự do của người nghệ sĩ, vừa tượng trưng cho nỗi cô đơn và dấu vết họ để lại trong đời. Nhà thơ ra đi, nhưng cảm hứng, tác phẩm và những suy tư của họ vẫn còn mãi, biến người đọc thành "mấy chai rượu trong vắt", nghĩa là những tâm hồn đã được chưng cất, lắng đọng qua những câu thơ của họ.Không chỉ được ví như đám mây, nhà thơ còn là "những rễ cây nhỏ" lặng thầm đi sâu vào lòng đất để kiếm tìm "ánh sáng của nguồn nước thiêng trong mạch đất khô cằn". Đây chính là hành trình của người sáng tạo nghệ thuật: họ tìm kiếm cái đẹp, chân lý giữa thế gian đầy khắc nghiệt, đôi khi đối diện với cô đơn và sự lãng quên. Đối lập với họ là những "kẻ ồn ào quen lớn tiếng về sứ mệnh lớn lao", những người khoác lên mình vỏ bọc cứu rỗi nhân sinh nhưng thực chất lại chẳng làm được gì:
"Mà chẳng cứu được ai ngoài chính mình
Và nhiều khi chính mình cũng không cứu nổi."
Câu thơ mang tính phê phán sâu sắc, thể hiện sự đối lập giữa những nhà thơ chân chính – người sống lặng lẽ nhưng để lại giá trị vĩnh cửu – với những kẻ ồn ào nhưng vô nghĩa. Hình tượng nhà thơ tiếp tục được mở rộng, họ như "những ảo ảnh của các câu thơ", tồn tại mong manh nhưng đầy sức ám ảnh. Chính họ khiến con người nhận ra rằng:
"Tình yêu là ngôi nhà ấm áp và mỏng manh nhất của mỗi đời người
Mà đôi khi chúng ta không giữ được
Cho chính con tim yếu đuối mong được cứu rỗi."
Tình yêu – cũng như thơ ca – vừa là nơi trú ẩn, vừa là điều mong manh dễ vỡ. Nhà thơ viết về nó, trân trọng nó nhưng cũng bất lực trước sự phai nhạt của tình yêu trong thực tế. Và vì thế, "tình yêu là bài ca hy vọng và tuyệt vọng nhất của mỗi nhà thơ trong lần ra đi cuối cùng." Kết thúc bài thơ là một dư âm lặng lẽ nhưng day dứt. Nguyễn Việt Chiến không chỉ viết về cái chết của nhà thơ, mà còn viết về sự bất tử của họ trong thơ ca. Họ có thể rời xa thế gian, nhưng câu chữ của họ vẫn còn, trở thành ánh sáng soi rọi, trở thành nơi để con người tìm đến giữa cuộc đời đầy hỗn độn. Cái tôi của tác giả trong bài thơ là một cái tôi chiêm nghiệm, triết lý, vừa trân trọng thơ ca, vừa ý thức rõ về sự mong manh của kiếp người. Bài thơ mang màu sắc hiện sinh, thể hiện những suy tư về sự sống, cái chết, nghệ thuật và tình yêu. Nhà thơ có thể ra đi, nhưng thơ ca sẽ mãi ở lại – như những đám mây, những rễ cây, những ảo ảnh trong không gian và thời gian.
Nhận định của Mai Văn Phấn: “Khi trong tâm người viết là tất cả thế giới thì họ sẽ viết về chính mình như viết về thế giới và ngược lại” hoàn toàn phù hợp với tinh thần bài thơ của Nguyễn Việt Chiến. Xuyên suốt tác phẩm, nhà thơ không chỉ viết về những thi nhân đã khuất mà còn bộc lộ chính suy tư, trăn trở của mình về thơ ca, về cuộc đời. Bài thơ là sự hòa quyện giữa cái tôi cá nhân và cái nhìn rộng lớn về thế giới, giữa nỗi buồn riêng và những suy tưởng mang tính nhân sinh sâu sắc. Như một sự đồng vọng với nhận định trên, nhà thơ Octavio Paz từng nói: "Nhà thơ cất tiếng nói không chỉ cho riêng mình, mà còn cho những ai câm lặng trong cuộc đời." Nguyễn Việt Chiến đã làm điều đó khi khắc họa hình tượng nhà thơ vừa lặng lẽ, cô đơn nhưng cũng đầy sức mạnh, âm thầm gieo hạt cho những thế hệ sau. Bài thơ không chỉ là lời tri ân những thi nhân đã khuất, mà còn là minh chứng cho sức sống mãnh liệt của thi ca – thứ có thể giúp con người nhận ra vẻ đẹp của tình yêu, của nghệ thuật và của chính cuộc đời mình.